Bảo Lãnh Thân Nhân - Khi Nào Được Thẻ Xanh 2 Năm Hoặc Được Thẻ Xanh 10 Năm


Immigration Marriage Fraud Amendments of 1986 (IMFA) (tạm dịch là Tu Chính Án Luật Di Trú về việc Hôn Nhân Gian Trá của năm 1986).  Đạo luật này được lập ra để ngăn ngừa những vấn đề lập hôn thú giả để hưởng những điều luật di trú.  Đạo luật này đã tạo nên rất nhiều sự khó khăn cho “người được bảo lãnh” (Beneficiary) và “người bảo lãnh” (Petitioner).

Đạo luật này nói rằng người được bảo lãnh sẽ được thẻ xanh có giá trị 2 năm nếu:

1)  người được bảo lãnh được sự thường trú do sự hôn nhân với Công Dân Hoa Kỳ hoặc thường trú nhân (tức là bảo lãnh theo diện phối ngẫu), và

2) sự hôn nhân đó dưới 2 năm khi “người được bảo lãnh” được sự thường trú.

Nếu người được bảo lãnh được thẻ xanh theo những diện bảo lãnh thân nhân khác như bảo lãnh cho con, cha/mẹ, và anh chị em, thì những diện bảo lãnh đó sẽ được cấp thẻ xanh 10 năm.

Điều kiện của thẻ xanh 2 năm có thể bỏ đi nếu “người được bảo lãnh” làm mẫu đơn I-751 chung với “người bảo lãnh” 90 ngày trước khi thẻ xanh 2 năm hết hạn hoặc làm mẫu đơn I-751 và xin miễn sự đòi hỏi làm chung với “người bảo lãnh.”  Điều kiện của thẻ xanh 2 năm đã cho Sở Di Trú cơ hội lần thứ hai để khảo sát sự hôn nhân của đương sự có gian trá hay không.

Nếu sự hôn nhân đã quá 2 năm khi “người được bảo lãnh” được sự thường trú, thì người được bảo lãnh phải được thẻ xanh 10 năm.  Có trường hợp Sở Di Trú làm sai khi cấp thẻ xanh có giá trị 2 năm cho “người được bảo lãnh” dù rằng ngày được sự thường trú đã quá 2 năm từ ngày làm hôn thú.  Trong trường hợp đó, “người được bảo lãnh” có quyền khiếu nại để điều chỉnh thẻ xanh và không phải làm mẫu đơn I-751.  Lý do mà sĩ quan của Sở Di Trú Hoa Kỳ tại phi trường làm sai vì khi đương sự đi phỏng vấn và được cấp chiếu khán nhập cảnh bởi Lãnh Sự Hoa Kỳ, lúc đó hôn thú chưa đủ 2 năm, cho nên Lãnh Sự Hoa Kỳ phải cấp chiếu khán với mã số thẻ xanh 2 năm.  Nhưng sau đó đương sự nhập cảnh Hoa Kỳ (ngày nhập cảnh là ngày được sự thường trú) sau 2 năm lập hôn thú, theo luật Sở Di Trú phải cấp đương sự thẻ xanh 10 năm.  Vì sĩ quan Sở Di Trú dựa vào mã số trên chiếu khán cho nên làm sai và cấp cho đương sự thẻ xanh 2 năm.

Quí bạn đọc nên lưu ý đạo luật nói rằng ngày được sự thường trú chứ không phải là ngày được thẻ xanh.  Tức là ngày được chấp thuận sự thường trú chứ không phải ngày nhận được thẻ xanh.  Điển hình là trong trường hợp “người được bảo lãnh” được bảo lãnh và phỏng vấn tại quê nhà của họ, khi nhập cảnh Hoa Kỳ lần đầu tiên, thì ngày nhập cảnh đầu tiên là ngày được sự thường trú.  Khoảng 1 tháng thì Sở Di Trú sẽ gửi thẻ xanh về.  Trong trường hợp khác, người được bảo lãnh hiện có mặt tại Hoa Kỳ và làm hồ sơ thay đổi tình trạng di trú sang diện thẻ xanh, sau khi phỏng vấn và hồ sơ được chấp thuận, thì ngày hồ sơ chấp thuận là ngày được sự thường trú.  Khoảng 1 tháng sau thì Sở Di Trú sẻ gửi thẻ xanh về.

 

Đạo luật này được áp dụng vào trường hợp người bảo lãnh là Công Dân Hoa Kỳ và thường trú nhân.  Nhưng chúng ta không thấy trường hợp thường trú nhân vì thời nay những hồ bảo lãnh diện phối ngẫu và người bảo lãnh là thường trú nhân, thời gian chờ đợi từ lúc nộp đơn bảo lãnh đến ngày đươc phỏng vấn ít nhất là 2 năm.  Những trường hợp đó “người thừa hưởng” phải được thẻ xanh 10 năm vì từ ngày lập hôn thú đến ngày được sự thường trú đã quá 2 năm.