Tị Nạn


Khi chúng ta nghe đến từ “tị nạn” thì chúng ta đều đã từng nghe qua và nhiều nhất là “tị nạn chính trị”.  Nhưng từ “tị nạn” trong luật di trú Hoa Kỳ được chia ra làm hai:  1) Refugees; và 2) Asylees.  Luật di trú Hoa Kỳ cho phép những người chạy trốn cuộc bức hại (persecution) tìm kiếm sự bảo vệ ở Hoa Kỳ theo một số loại khác nhau và hai loại trong đó là refugees và asylees.  Sự khác biệt giữa refugees và asylees là refugees được áp dụng cho người ở ngoài Hoa Kỳ và asylees được áp dụng cho người ở trong Hoa Kỳ.  Điều kiện để được hưởng quyền lợi tị nạn thì như nhau.

Một người tị nạn được định nghĩa chung là một người không thể hoặc không muốn trở về quốc gia của họ vì bị bức hại (persecution) hoặc “well founded fear of persecution” (tạm dịch là có lý do chính đáng sợ bị bức hại) vì lý do 1) chủng tộc, 2) tôn giáo, 3) quốc tịch, 4) thành viên trong một nhóm cụ thể, và 5) quan điểm chính trị.  Như quí vị thấy, tị nạn chính trị chỉ là 1 trong 5 lý do để hưởng quyền lợi tị nạn.

Bức hại có nghĩa là mối đe dọa đối với cuộc sống hoặc quyền tự do, hoặc gây ra đau khổ hoặc tổn hại. Bức hại bao gồm giam cầm và tra tấn, nhưng cũng có thể bao gồm tước đoạt đáng kể về kinh tế tạo thành mối đe dọa đối với cuộc sống hoặc tự do của một cá nhân.  Việc bức hại không yêu cầu đương đơn phải xác định thương tích vĩnh viễn hoặc nghiêm trọng.  Sự bức hại cũng có thể dưới hình thức hãm hiếp hoặc tấn công tình dục.  Việc thẩm vấn giam giữ có thể là sự ngược đãi nếu nó mang tính lạm dụng.

“Well founded fear” yêu cầu đương đơn chứng tỏ rằng một người hợp lý trong hoàn cảnh của đương đơn sẽ sợ bị ngược đãi.  “Well founded fear” yêu cầu thành phần chủ quan (là sợ hãi) và thành phần khách quan (là khả năng bị ngược đãi hợp lý).  Khi một người đã từng bị bức hại trong quá khứ, thì họ được coi là họ có “well founded fear” bị bức hại trong tương lai.

Một người được nhập cảnh Hoa Kỳ theo chương trình refugee hoặc được chấp thuận đơn xin asylee ở Hoa Kỳ được nộp đơn xin điều chỉnh tình trạng di trú sang thành thường trú nhân sau 1 năm.  Một năm bắt đầu từ thời điểm người đó được nhập cảnh Hoa Kỳ sau khi được chấp nhận là tị nạn hoặc nếu đã ở Hoa Kỳ thì tính từ ngày đơn I-730 được chấp thuận.  Vợ/chồng và con cái có thể được nhập cảnh chung với người đứng đơn và điều chỉnh tình trạng di trú ngay cả khi bản thân họ không phải là người tị nạn.

Tôi nhớ cách đây nhiều năm, tôi có lo hồ sơ cho một số mục sư đạo tinh lành.  Có người thì bị đánh đập vì họ thuyết giáo  không có giấy phép.  Có người thì không bị đánh đập nhưng bị công an “mời lên làm việc” nhiều lần và cuối cùng họ được thả về.  Họ may mắn xin được thị thực du lịch sang Hoa Kỳ.  Khi họ đặt chân đến Hoa Kỳ, chúng tôi nộp đơn I-730 để xin tị nạn cho những mục sư đó và đã thành công.  Những mục sư đó có bằng chứng rằng họ được công an “mời lên làm việc” vì mổi lần được mời lên, họ được công an cấp giấy mời.  Ngoài ra họ có những lời khai với Sở Di Trú để chứng minh họ bị bức hại hoặc có “well founded fear” rằng nếu họ bị trả về thì họ sẽ bị giam cần tra tấn hoặc mất quyền tự do.