Thủ Tục Cho Nạn Nhân Của Sự Bạo Hành
Trong trường hợp bị người phối ngẫu ngược đải thì phải làm sao? Đây là một câu hỏi mà chúng tôi thường được hỏi rất là thường xuyên. Trong trường hợp này thì tùy theo người nạn nhân có thẻ xanh 2 năm hay chưa.
Nếu chưa có thẻ xanh 2 năm:
Nếu người nạn nhân chưa có thẻ xanh 2 năm, thì người nạn nhân có thể nộp mẫu đơn I-360 để tự mình bảo lãnh cho mình mà không cần người phối ngẫu theo Đạo Luật Violence Against Women Act (VAWA) (tức là Đạo Luật Sự Bạo Hành Đối Với Phụ Nữ). Tuy rằng phụ nữ là đa số đương đơn nộp đơn xin quyền lợi dưới Đạo Luật VAWA, nhưng một số lớn đơn của nam giới lại được chấp thuận.
Để được hưởng quyền lợi của đạo luật VAWA, đương đơn phải hội đủ điều kiện dưới diện bảo lãnh thân nhân. Tức là đương đơn phải chứng minh (1) họ là người phối ngẫu hoặc là con của người bạo hành, (2) họ đã chịu đựng sự hành hung hay sự tàn ác cực độ của người phối ngẫu, và (3) đương đơn phải là người có hạnh kiểm tốt. Dưới đạo luật VAWA, đương đơn không phải chứng minh họ sẽ bị khốn khổ cùng cực nếu bị trả về nước của họ và đương đơn không cần phải giữ nguyên tình trạng phối ngẫu trong cuộc hôn nhân bạo hành đó miễn là đương đơn nộp đơn trong vòng hai năm sau khi ly dị và sự ly dị xảy ra là do sự bạo hành. Đơn Ỉ-360 có thể được Sở Di Trú USCIS chấp thuận mà không cần phỏng vấn nếu đơn được nộp với đầy đủ bằng chứng chứng minh ba điều lệ nêu trên. Sau khi đơn I-360 được chấp thuận, người nạn nhân phải nộp mẫu đơn I-485 để xin thẻ xanh.
Nếu đã có thẻ xanh 2 năm:
Nếu người nạn nhân đã có thẻ xanh 2 năm và bị người phổi ngẫu của mình ngược đãi thì người nạn nhân có thể nộp mẫu đơn I-751 để tự mình xin thẻ xanh 10 năm. Người nạn nhân phải chứng minh rằng hôn nhân là chân thật và người nạn nhân hoặc con của họ bị “người bảo lãnh” bạo hành. Điều luật này không có sự đòi hỏi là hai vợ chồng đã ly dị. Sở Di Trú đã minh định rằng sự miễn trừ này dành cho những nạn nhân của “người bảo lãnh” của bất cứ sự hăm dọa nào có tính cách hành hung. Những sự bạo hành về tâm thần hoặc lạm dụng tình dục, hãm hiếp, bị áp bức làm việc mãi dâm sẽ được coi là bạo hành. Sở di trú sẽ chấp nhận bất cứ bằng chứng nào có thể chứng minh sự bạo hành đó. Những chứng minh đó bao gồm có bản báo cáo của bác sĩ hoặc người chuyên môn về tâm thần. Đơn I-751 phải được nộp với bằng chứng cụ thể chứng minh rằng sự hôn nhân của người nạn nhân và người bảo lãnh là chân thật.
Bình thường thì đương đơn của đơn xin thẻ xanh 10 năm phải được Sở Di Trú USCIS phỏng vấn trước khi hồ sơ được quyết định, ngoại trừ cuộc phỏng vấn được miễn. Vào ngày 30 tháng 11 năm 2018, Sở Di Trú USCIS đã ban hành hướng dẫn mới liên quan đến sự miễn phỏng vấn cho mẫu đơn I-751. Hướng dẫn mới này chỉ định khi nào sĩ quan của Sở Di Trú USCIS có thể xem xét quyết định miễn phỏng vấn hồ sơ xin thẻ xanh 10 năm. Hướng dẫn mới này có hiệu lực vào ngày 10 tháng 12 năm 2018 và được áp dụng cho tất cả hồ sơ xin thẻ xanh 10 năm mà Sở Di Trú USCIS nhận được vào hoặc sau ngày 10 tháng 12 năm 2018.
Theo hướng dẫn ngày 30 tháng 11 năm 2018 của Sở Di Trú USCIS, đương đơn của mẫu đơn I-751 phải được phỏng vấn bởi Sở Di Trú USCIS. Tuy nhiên, sĩ quan của Sở Di Trú USCIS có thể xem xét từ bỏ một cuộc phỏng vấn nếu họ hài lòng rằng hồ sơ hội đũ 4 điều lệ sau đây:
Điều lệ thứ nhất là Sở Di Trú USCIS có thể đưa ra quyết định dựa trên hồ sơ vì hồ sơ chứa đủ bằng chứng về sự trung thực của cuộc hôn nhân và đương đơn đi vào cuộc hôn nhân này không phải với mục đích trốn tránh luật nhập cư của Hoa Kỳ. Theo điều lệ này nếu đương đơn nộp đầy đũ bằng chứng để chứng minh hôn nhân của đương đơn là chân thật thì đương đơn hội đũ điều lệ này.
Điều lệ thứ hai là những hồ sơ xin thẻ xanh 10 năm nộp vào hoặc sau ngày 10 tháng 12 năm 2018 mà đương đơn đã từng được Sở Di Trú USCIS phỏng vấn. Chiếu theo điều lệ này thì những đương đơn nào làm hồ sơ thay đổi tình trạng di trú sang thành thường trú nhân (Adjustment of Status) và được thẻ xanh 2 năm thì được coi là đã từng được Sở Di Trú USCIS phỏng vấn. Còn những đương đơn nào được thẻ xanh 2 năm do nhập cãnh Hoa Kỳ theo diện phối ngẫu thì bắt buộc phải bị phỏng vấn khi xin thẻ xanh 10 năm vì những đương đơn đó chưa từng được Sở Di Trú USCIS phỏng vấn. Sở Di Trú USCIS nói rỏ rằng đương đơn được Lãnh Sự Hoa Kỳ phỏng vấn trước đây được coi là chưa từng được Sở Di Trú USCIS phỏng vấn trước đây.
Điều lệ thứ ba là hồ sơ không có dấu hiệu gian lận trong mẫu đơn I-751 hoặc trong những bằng chứng nộp vào.
Điều lệ thứ tư là hồ sơ không có vấn đề phức tạp nào mà cần phải có một cuộc phỏng vấn để giải quyết các mối quan tâm của Sở Di Trú USCIS.
Khi đương đơn hội đũ 4 điều lệ nêu trên thì Sở Di Trú USCIS có thể miễn phỏng vấn hồ sơ thẻ xanh 10 năm. Nếu đương đơn không hội đũ 1 trong 4 điều lệ trên thì bắt buộc phải bị phỏng vấn.