Không Nên Nộp Gấp Đơn Tị Nạn Vì Muốn Thẻ Đi Làm


Nhiều người nhập cảnh bất hợp pháp từ biên giới phía nam đã liên lạc với tổ hợp luật sư Nguyễn & Lưu của chúng tôi để tìm cách ở lại Hoa Kỳ và có thẻ xanh. Có người muốn làm thẻ xanh theo diện bảo lãnh vợ chồng, có người muốn ở lại theo diện bảo lãnh con nuôi, và có người muốn có thẻ đi làm (work permit) để làm việc hợp pháp. Khi đương sự muốn thay đổi tình trạng di trú sang thường trú nhân (Adjustment of Status) vì lập gia đình với thường trú nhân hoặc công dân Hoa Kỳ, họ phải chứng minh đã nhập cảnh hợp pháp. Nếu người bảo lãnh là thường trú nhân, họ còn phải chứng minh thêm rằng họ hiện đang ở Hoa Kỳ hợp pháp. Vì vậy, những người nhập cảnh bất hợp pháp vào Hoa Kỳ không có quyền làm thủ tục Adjustment of Status tại Hoa Kỳ.

Trong trường hợp muốn làm hồ sơ con nuôi, đương sự gặp nhiều khó khăn hơn vì phải hội đủ ba điều kiện. Điều kiện thứ nhất: con nuôi phải được nhận trước khi đủ 16 tuổi, và việc nhận nuôi phải hợp pháp theo luật của nơi thực hiện việc nhận nuôi. Điều kiện thứ hai: con nuôi phải sống chung nhà với cha hoặc mẹ nuôi ít nhất 2 năm, và thời gian này có thể diễn ra trước hoặc sau khi nhận nuôi. Điều kiện thứ ba: con nuôi phải được cha hoặc mẹ nuôi giám hộ ít nhất 2 năm. Ngoài ra, đương sự cũng phải chứng minh rằng họ nhập cảnh hợp pháp.

Khi một người nhập cảnh bất hợp pháp vào Hoa Kỳ từ biên giới phía nam, họ không có cách nào khác để trở thành thường trú nhân ngoại trừ xin tị nạn, và hồ sơ tị nạn phải được Sở Di Trú hoặc Tòa Di Trú chấp thuận.

Nhiều người muốn có thẻ đi làm càng sớm càng tốt để họ có thể kiếm sống. Tôi rất thông cảm với những người trong hoàn cảnh đó, tuy nhiên, với vai trò là một luật sư chuyên về luật di trú, mục tiêu của tôi là giúp thân chủ của mình xin được tị nạn để họ có thể ở lại Hoa Kỳ hợp pháp, chứ không phải chỉ giúp họ xin thẻ đi làm. Để được cấp thẻ đi làm, đương sự phải nộp đơn xin tị nạn cho Sở Di Trú hoặc Tòa Di Trú và phải đợi 150 ngày sau khi đơn tị nạn được nộp thì mới được phép nộp đơn xin thẻ đi làm.

Tôi đã gặp khá nhiều trường hợp người nhập cảnh bất hợp pháp liên lạc với văn phòng chúng tôi để tham khảo và nhờ chúng tôi đại diện trước Tòa Di Trú, sau khi họ đã nộp đơn xin tị nạn và nhận được thẻ đi làm. Khi duyệt qua các hồ sơ này, tôi thấy rằng phần lớn các đơn tị nạn được làm bởi dịch vụ và thường được nộp một cách vội vã và sơ sài. Những đơn tị nạn như vậy có thể gây ảnh hưởng xấu cho đương sự, vì Sở Di Trú hoặc Tòa Di Trú sẽ dựa vào đơn tị nạn đó để quyết định xem đương sự có đủ điều kiện để xin tị nạn hay không. Nếu Sở Di Trú hoặc Tòa Di Trú nhận thấy đương sự chỉ nộp đơn tị nạn để có thẻ đi làm mà không có ý định xin tị nạn thật sự, thì họ sẽ đưa ra kết luận bất lợi cho đương sự.

Theo định nghĩa chung, một người tị nạn là người không thể hoặc không muốn trở về quốc gia của họ vì bị bức hại (persecution) hoặc vì có lý do chính đáng để sợ bị bức hại (well-founded fear of persecution) vì một trong các lý do sau: 1) chủng tộc, 2) tôn giáo, 3) quốc tịch, 4) là thành viên của một nhóm cụ thể, hoặc 5) quan điểm chính trị. Bức hại được hiểu là mối đe dọa đối với cuộc sống hoặc quyền tự do, hoặc gây ra đau khổ hoặc tổn hại. Bức hại bao gồm việc giam cầm và tra tấn, nhưng cũng có thể bao gồm sự tước đoạt nghiêm trọng về kinh tế, tạo ra mối đe dọa đối với cuộc sống hoặc tự do của cá nhân. Để chứng minh bức hại, không yêu cầu đương đơn phải có thương tích vĩnh viễn hoặc nghiêm trọng. Hành vi bức hại cũng có thể bao gồm cưỡng hiếp hoặc tấn công tình dục. Việc thẩm vấn hay giam giữ có thể được xem là ngược đãi nếu mang tính lạm dụng.

“Well-founded fear” yêu cầu đương đơn chứng minh rằng một người hợp lý trong hoàn cảnh của họ sẽ lo sợ bị ngược đãi. Tiêu chuẩn này bao gồm yếu tố chủ quan (là sự sợ hãi) và yếu tố khách quan (là khả năng hợp lý bị ngược đãi). Nếu một người đã từng bị bức hại trong quá khứ, họ sẽ được xem là có "well-founded fear" sẽ tiếp tục bị bức hại trong tương lai.