Hậu Quả Của Diện Vị Hôn Phu Vị Hôn Thê
Một đặc điểm của diện vị hôn phu/vị hôn thê là khi người được bảo lãnh nhập cảnh Hoa Kỳ, họ phải lập hôn thú với người bảo lãnh và nộp đơn thay đổi tình trạng di trú (Adjustment of Status). Nếu người được bảo lãnh thay đổi ý kiến và không lập hôn thú với người bảo lãnh, người được bảo lãnh sẽ không được phép thay đổi tình trạng di trú, kể cả khi kết hôn với một công dân Hoa Kỳ khác hoặc được bảo lãnh bởi thân nhân khác như cha, mẹ, anh, chị, em. Trong trường hợp này, nếu người được bảo lãnh muốn sống hợp pháp tại Hoa Kỳ, họ phải trở về quốc gia của mình để xin thị thực định cư trước khi được phép nhập cảnh Hoa Kỳ.
Trong trường hợp người bảo lãnh thay đổi ý kiến, không lập hôn thú với người được bảo lãnh, hoặc đã lập hôn thú nhưng không tiếp tục bảo lãnh cho người được bảo lãnh, thì người được bảo lãnh sẽ không được thay đổi tình trạng di trú, tương tự như trường hợp người được bảo lãnh tự thay đổi ý kiến đã nêu ở trên.
Có nhiều trường hợp người bảo lãnh hoặc người được bảo lãnh thay đổi ý kiến, và người được bảo lãnh kết hôn với một công dân Hoa Kỳ khác, đinh ninh rằng họ sẽ được thay đổi tình trạng di trú với hồ sơ mới. Tuy nhiên, sau khi đi phỏng vấn, hồ sơ thay đổi tình trạng di trú thường bị từ chối, và từ ngày bị từ chối, người được bảo lãnh trở thành người cư trú bất hợp pháp tại Hoa Kỳ. Nếu muốn ở lại Hoa Kỳ hợp pháp, họ phải quay về quốc gia của mình để xin thị thực trước khi được nhập cảnh Hoa Kỳ.
Vấn đề khúc mắc là nhiều người trong tình trạng này đã ở Hoa Kỳ bất hợp pháp hơn 1 năm. Do đó, nếu họ rời khỏi Hoa Kỳ, họ sẽ bị cấm nhập cảnh trong 10 năm theo điều luật 212(a)(9). Theo điều luật này, nếu một người ở Hoa Kỳ bất hợp pháp từ 180 ngày trở lên, khi rời khỏi Hoa Kỳ, họ sẽ bị cấm nhập cảnh trong 3 năm. Nếu thời gian bất hợp pháp là 1 năm trở lên, lệnh cấm nhập cảnh sẽ kéo dài 10 năm. Những người rơi vào tình trạng này có thể nộp đơn xin miễn điều luật cấm nhập cảnh nếu muốn được nhập cảnh Hoa Kỳ trước khi thời hạn này kết thúc.
Theo thủ tục nộp đơn xin miễn trước đây, đương đơn phải rời Hoa Kỳ để nộp đơn xin thị thực tại Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ (TTLSHK) ở quốc gia của họ và phải đợi cho đến khi TTLSHK xác định đương đơn bị rơi vào điều luật 212(a)(9), sau đó đương đơn mới được nộp đơn xin miễn với Sở Di Trú. Nếu Sở Di Trú chấp thuận đơn xin miễn, TTLSHK sẽ cấp thị thực. Tuy nhiên, nếu Sở Di Trú từ chối, đương đơn sẽ bị mắc kẹt và có thể rơi vào tình cảnh vợ chồng phải sống xa nhau. Vì không có sự chắc chắn về việc sẽ được đoàn tụ với người phối ngẫu, nhiều người trong tình trạng này đã quyết định không rời Hoa Kỳ.
Chính vì lý do đó, U.S. Department of Homeland Security đã ban hành quy định mới vào ngày 6 tháng 1 năm 2012 và quy định đó đã được mở rộng cho nhiều người nộp đơn hơn vào tháng 8 năm 2016. Theo luật di trú hiện nay, người được bảo lãnh có thể nộp đơn xin miễn điều luật cấm nhập cảnh 3 hoặc 10 năm này khi còn có mặt tại Hoa Kỳ. Nếu đơn xin miễn được chấp thuận, đương đơn vẫn phải rời Hoa Kỳ và tham gia phỏng vấn tại Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đương đơn sẽ không còn bị điều luật 212(a)(9) cản trở trong việc cấp chiếu khán. Nếu đương đơn bị áp dụng điều luật cấm nhập cảnh khác, họ sẽ phải nộp đơn xin miễn điều luật đó khi ở ngoài Hoa Kỳ. Để hội đủ điều kiện xin miễn điều luật cấm nhập cảnh, đương đơn cần chứng minh rằng họ gặp cực kỳ khó khăn (extreme hardship) đối với vợ/chồng hoặc cha mẹ là công dân Hoa Kỳ hoặc thường trú nhân.